Bắt đầu từ giai đoạn này chính phủ Việt Nam đã có những nhận thức mới mẻ hơn, đúng đắn hơn về xuất khẩu lao động. Chỉ thị 41_CT/ TƯ(22/9/1998) khẳng định: “Xuất khẩu lao động và chuyên gia là một hoạt động kinh tế xã hội góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, cùng với các giải pháp giải quyết việc làm công ty Hàn Quốc trong nước là chính, xuất khẩu lao động và chuyên gia là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nứơc trong thời kỳ CNH, HĐH”.
Mặt khác, cùng với sự chuyển biến tính chất của nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường nên đặc trựng của xuất khẩu lao động trong giai đoạn này là xuất khẩu lao động chịu sự tác động của quy luật thị trường, mang tính cạnh tranh cao hơn và chắc chắn sẽ hiệu quả hơn nhiều. Các kết quả đạt đựơc của xuất khẩu lao động trong giai đoạn này là:
- Số lượng lao động đựơc đưa đi làm việc có thời hạn ở nứơc ngoài và số thị trường xuất khẩu lao động.
Trong thời gian qua chúng ta đã đưa đựơc tổng số 279.008 lao động đi làm việc tại 46 quốc gia và vùng lãnh thổ. Chúng ta có bảng sau:
Bảng 5: Số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Năm |
Số lao động(người) |
Tăng so với năm trước(%) |
Thị trườngXKLĐ |
1991 |
1.020 |
— |
|
1992 |
810 |
-20,59 |
12 |
1993 |
3.960 |
388,89 |
|
1994 |
9.230 |
133,1 |
|
1995 |
10.050 |
8,88 |
15 |
1996 |
12.660 |
25,97 |
|
1997 |
18.470 |
45,89 |
|
1998 |
12.240 |
-33,73 |
27 |
1999 |
21.240 |
78,19 |
38 |
2000 |
31.468 |
44,28 |
40 |
2001 |
36.168 |
14,93 |
|
2002 |
46.122 |
27,52 |
|
2003 |
75.000 |
62,6 |
46 |
Tổng |
279.008 |
|
46 |
Nguồn: Tổng hợp từ nhiều nguồn.
Qua bảng trên chúng ta có thể nhận thấy một số điểm mốc quan trọng trong hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua.
- Năm 1992, 1998 tỷ lệ tăng số lao động được đưa đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài so với năm trước đó đều sụt giảm một cách nghiêm trọng. Liên hệ với bối cảnh kinh tế trong nước, khu vực và thế giới trong khoảng thời gian đó ta giải thích như sau:
+ Cuối thập kỉ 80 đầu thập kỉ 90 sau sự sụp đổ của Liên Xô, hàng loạt các nước XHCN ở Đông Âu cũng liên tiếp sụp đổ. Sau biến cố chính trị này tất cả lao động nước ngoài ở các nước này đều phải trở về nước trong đó có lao động Việt Nam. Mặt khác, từ trước cho đến thời điểm đó Liên Xô và các nước Đông Âu vốn là thị trường xuất khẩu lao động truyền thống của Việt Nam nên khi xảy ra biến cố này Việt Nam thực sự rơi vào tình thế bị động trong cả việc giải quyết việc làm, ổn định đời sống cho người lao động về nước và việc tiếp tục duy trì hoạt động xuất khẩu lao động. Vì thế số lao động được đưa đi làm việc ở nước ngoài năm 1992 chỉ dừng lại ở con số 810 người.
+ Năm 1997 diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực châu á mà đầu tiên là ở ThaiLan. Cuộc khủng hoảng kéo theo nó là sự sụp đổ, trì trệ nền kinh tế của các nước trong khu vực, làm giảm nhu cầu nhập khẩu lao động nước ngoài tại các nước này.
- Những năm sau đó tỷ lệ tăng so với năm trước được khôi phục (93, 94) và rồi lại có xu hướng giảm dần. Điều đó cho thấy:
+ Thứ nhất, chính phủ Việt Nam đã nhanh chóng áp dụng các biện pháp khắc phục kịp thời, nhạy bén với thời cuộc để chuyển từ thế bị động sang thế chủ động. Trong thời gian ngắn hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam lại nhanh chóng đi vào sự ổn định.
+ Thứ hai, hoạt động xuất khẩu lao động thực sự đã bị yếu tố thị trường chi phối nghĩa là phụ thuộc vào quan hệ cung- cầu trên thị trường, xuất hiện tính cạnh tranh gay gắt với các nứơc xuất khẩu lao động khác, đặc biệt là các nứơc trong khu vực như ThaiLan, Philippin, Indonexia. Dù vậy, hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam vẫn khởi sắc. Năm 2003 số lao động được đưa đi làm việc ở nứơc ngoài chiếm tới 26,88% tổng số lao động trong cả giai đoạn 1990-2003.
Về thị trường xuất khẩu lao động: không ngừng đựơc mở rộng và khai thác. Từ chỗ chỉ có 12 thị trường năm 1992 lên tới 46 thị trường vào năm 2003. Những kết quả đó cho thấy trong tương lai hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam sẽ còn gặt hái nhiều thành công hơn nữa.