Thủy thành: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu uốn quanh như bức tường thành. Sinh khí vận hành trong lòng đất, gặp thủy thì dừng; thủy lưu uốn lượn như cánh cung, giới hạn chân núi, ngăn dừng sinh khí, nên gọi là Thủy thành. Huyệt mộ, nhà ở đều cần nằm ở bên trong Thủy thành; nếu ở bên ngoài Thủy thành sẽ là phản cung, hung.
Ngoại thuỷ: Thủy đạo. Đối ứng với Nội thủy, tức là dòng nước chảy ở bên ngoài Minh đường. Thuyết thủy Long lấy Can lưu ở bên ngoài Chi thủy làm Ngoại thủy.
Nội thủy: Thủy đạo. Chỉ dòng nước chảy bên trong Minh đường. Nói chung, nó chảy theo hai bên mạch núi đến Minh đường, hội hợp ở trước huyệt, yêu cầu phải Bình, Hoành, Nhiêu; có thể dùng sức người cải tạo cho phù hợp với yêu cầu. Thuyết thủy Long lấy Chi lưu ở bên trong Can lưu sông nước làm Nội thủy.
Thanh long thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía đông (phía bên trái) nhà ở và huyệt mộ. Tùy hình dạng của nó mà xác định cát hung.
Chu tước thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía Nam (phía trước) nhà ở và huyệt mộ. Tùy hình dạng và tiếng nước chảy của nó mà xác định cát hung.
Bạch hổ thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía tây (phía bên phải) nhà ở và huyệt mộ. Tùy hình dạng của nó mà xác định cát hung.
Huyền vũ thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía bắc (phía sau) nhà ở và huyệt mộ. Tùy hình dạng của nó mà xác định cát hung.
Triều thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu chảy đến từ phía trước nhà ở và huyệt mộ. Yêu cầu nó phải uốn lượn như con rắn trườn mình mà tới, hoặc như dải ngọc quấn quanh eo lưng, trông dịu dàng hòa hoãn. Ca quyết nói: “Thủy kiến tam loan, phú quý an nhàn”(Thủy Long kinh). Nếu chảy thẳng đến, gọi là xung xạ, đại hung.